Rõ ràng, với việc Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, với sản lượng lên đến 6-7 triệu tấn mỗi năm, thì việc tiếp tục gắn bó với cây lúa trong bối cảnh xâm mặn đang dần trở thành một xu hướng không thể ngăn cản quả thực là không có nhiều tính khả thi. Việc trong tương lai Việt Nam có thể sẽ phải bỏ ra hàng tỉ USD để xây dựng các hồ chứa nước ngọt và hệ thống công trình ngăn mặn tại đồng bằng sông Cửu Long cũng đồng nghĩa với việc chúng ta cần quy hoạch lại cơ cấu nông nghiệp tại khu vực này, theo một hướng hiệu quả hơn.
Một điều chắc chắn rằng sau khi đợt hạn hán và xâm nhập mặn kỷ lục hiện tại kết thúc, thì việc ngành nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục quay lại với cây lúa như loại cây trồng chủ lực của cả khu vực là điều bất khả thi. Theo các chuyên gia thì bài toán cơ bản đối với đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai vẫn là vấn đề xâm mặn, kể cả khi El Nino đã kết thúc.
Hiện tượng mực nước biển dâng đang diễn ra trên toàn cầu sẽ tiếp tục gia tăng mạnh trong tương lai. Theo tính toán của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thì đến năm 2100 mực nước biển tại đồng bằng sông Cửu Long sẽ tăng thêm 100cm. Nếu kịch bản đó xảy ra, khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nước mặn xâm nhập. Lượng nước ngọt đóng vai trò khử mặn tại đồng bằng sông Cửu Long đang ngày một ít đi, một phần do biến đổi khí hậu dẫn đến lượng mưa giảm, nhưng chủ yếu là do hệ thống các con đập thủy điện được các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Kông xây dựng.
Điều này đồng nghĩa với việc, nước mặn sẽ ngày càng có xu hướng xâm nhập vào sâu hơn tại đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân do thiếu nước ngọt. Việc xây dựng các hồ chứa nước ngọt và hệ thống kênh ngăn mặn là điều mà Việt Nam buộc phải thực hiện trong tương lai không chỉ để phục vụ sản xuất nông nghiệp mà còn để phục vụ sinh hoạt của người dân.
Theo tính toán của ông Ma Quang Trung, Cục trưởng Cục trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp, thì trong tương lai Việt Nam cần ít nhất 34.000 tỉ đồng (khoảng 1,5 tỉ USD) để xây dựng các công trình này. Đây là một con số không hề nhỏ và buộc Việt Nam phải tính toán sử dụng một cách hiệu quả nhất. Việc chi ra hàng tỉ USD xây dựng các công trình ngăn mặn để tiếp tục phương pháp canh tác nông nghiệp cũ dựa trên cây lúa làm chủ lực rõ ràng là không khả thi, và gần giống như chúng ta đang ném tiền qua cửa sổ. Kể cả khi phát triển các giống lúa chịu mặn đi chăng nữa, nó sẽ tốn nhiều thời gian và tiền bạc khi giá trị gia tăng của cây lúa hiện rất thấp, nhất là trong khi Việt Nam đang dư thừa lúa gạo lên tới hàng triệu tấn mỗi năm.
Tình trạng hiện tại đang buộc Việt Nam phải đặt ra bài toán tái cơ cấu lại nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long theo hướng giảm thiểu tối đa chi phí lên tới hàng tỉ USD mà chúng ta phải bỏ ra để xây dựng hệ thống hồ chứa nước và ngăn mặn ở khu vực này. Trên thực tế, không ít các chuyên gia từ lâu đã chỉ ra rằng, không phải toàn bộ diện tích đồng bằng sông Cửu Long đều thích hợp để trồng lúa.
Theo giáo sư Võ Xuân Tòng, việc Việt Nam bỏ ra hàng chục ngàn tỉ đồng trong những năm qua để ngọt hóa một phần không nhỏ diện tích đồng bằng sông Cửu Long phục vụ việc trồng lúa là không đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, điển hình như bán đảo Cà Mau. Với vị trí địa lý ven biển, rất nhiều vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long thích hợp để nuôi trồng các loại thủy hải sản có giá trị cao hơn cây lúa gấp nhiều lần như tôm sú. Và việc cố gắng ngọt hóa các vùng bán đảo ven biển để trồng lúa như đã làm trong những năm qua không những là lãng phí tiền bạc (do xây các công trình ngăn mặn và dẫn nước ngọt), hiệu quả kinh tế không cao (trồng lúa), mà còn làm ảnh hưởng xấu đến việc phát triển các vùng thích hợp cho nuôi trồng thủy hải sản vốn có giá trị gia tăng cao hơn trồng lúa rất nhiều.
Vì thế, việc hạn hán và xâm mặn ở mức độ kỷ lục hiện nay thậm chí đang đem lại lợi ích lớn cho các khu vực nuôi trồng thủy hải sản. Theo ông Quảng Trọng Thao, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang, nếu như hàng năm diện tích nuôi tôm bị thiệt hại lên đến 10.000 ha thì năm nay số thiệt hại gần như không đáng kể. Thậm chí, diện tích nuôi trồng các loại thủy hải sản đang có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong nhiều năm trở lại đây, chẳng hạn như diện tích nuôi tôm nước lợ của toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long năm nay đã lên tới 368.000 ha, cao hơn 80% so với năm 2015, trong đó diện tích nuôi tôm sú tăng 86,6% còn diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng cũng tăng 72,5% so với cùng kỳ 2015.
Việc quy hoạch lại cơ cấu nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long hiện tại vì thế là điều cần thiết, vì rõ ràng từ trước đến nay chúng ta chưa cân đối được các diện tích trồng lúa với các khu vực thuận lợi để phát triển thủy hải sản. Và giờ đây, khi Việt Nam buộc phải tính toán phạm vi và quy mô xây dựng các công trình thủy lợi để chống hạn và ngăn mặn, thì việc quy hoạch này là điều cần làm. Một khi quy hoạch và phát triển được các khu vực thích hợp cho nuôi trồng thủy hải sản, không những giá trị của ngành nông nghiệp sẽ gia tăng, mà số tiền Việt Nam phải bỏ ra để xây dựng các công trình ngăn mặn cũng sẽ giảm đi đáng kể.
Trên thực tế, xu hướng các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới đang dần chuyển sang các loại cây trồng khác là điều đang diễn ra. Chính phủ Thái Lan gần đây thậm chí đã khuyên người dân chuyển sang các loại cây trồng khác có giá trị cao hơn, vừa để có lợi nhuận lớn hơn và vừa để đối phó với tình trạng hạn hán sẽ diễn ra gay gắt trong tương lai. So với Thái Lan, thì rõ ràng Việt Nam đang có nhiều ưu thế hơn, vì phần lớn diện tích trồng lúa của Thái Lan nằm sâu trong đất liền và có ít lựa chọn hơn trong việc chọn cây trồng vật nuôi thích hợp mà vẫn có giá trị cao. Trong khi đó, khu vực được mệnh danh là vựa lúa của Việt Nam là đồng bằng sông Cửu Long lại có tới 3 mặt giáp biển, việc chuyển đổi cây trồng vật nuôi có giá trị cao là điều dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều so với Thái Lan.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành một cường quốc nông nghiệp thông qua các hiệp định thương mại đã ký kết, thì điều này càng cần được tiến hành hơn hết. Việc chuyển đổi từ cây lúa có giá trị thấp sang các giống cây trồng vật nuôi khác có giá trị cao là điều bắt buộc phải diễn ra, nhất là ở một khu vực có nhiều tiềm năng như đồng bằng sông Cửu Long.
Theo khía cạnh đó, việc hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng lại đang trở thành tác nhân thúc đẩy quá trình đó diễn ra nhanh hơn. Vì rõ ràng là việc tiêu tốn hàng tỉ USD để xây dựng các công trình ngăn mặn trải dài trên toàn bộ khu vực để tiếp tục việc ngọt hóa toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long phục vụ việc trồng lúa là một việc vừa không thực tế lại lãng phí, hơn nữa còn cản trở mục tiêu trở thành một cường quốc nông nghiệp trong tương lai nữa.
Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin từ The Saigon Times, Cafebiz, Vanhoanghean)
Out Of Topic Show Konversi KodeHide Konversi Kode Show EmoticonHide Emoticon